HỌC VIỆN CÁN BỘ TP. HỒ CHÍ MINH
|
KHOA XÂY DỰNG
ĐẢNG và
TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
|
TÊN
: DƯƠNG XUÂN HUY
|
LỚP
: H689
|
Vấn đề 3: Nêu một số điểm nổi bật về đường lối đổi mới đất nước của Đảng ta thời
kỳ từ năm 1986 đến nay? (Văn kiện Đại
hội VI đến Đại hội XII)
BÀI LÀM
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam năm 2013 có ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt
Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội”.
Trong suốt chiều dài lịch sử, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, vươn cao ngọn cờ cách mạng giải phóng dân tộc, đưa đất
nước đến độc lập tự do vào ngày 30/4/1975. Trong đó không thể không nhắc đến đường
lối cách mạng XHCN mà Đảng ta đã đề ra
và lãnh đạo nhân dân ta thực hiện, từ đó đưa đất nước ta vào thời đại mới, đem
lại cuộc sống ấm no cho nhân dân ta. Dưới
đây là một số điểm nổi bật về đường lối đổi mới đất nước của
Đảng ta thời kỳ từ năm 1986 đến nay.
- Sau khi miền
Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên
CNXH với những thuận lợi cơ bản cũng như không ít khó khăn, thách thức:
- Nước ta đi
lên CNXH với điểm xuất phát rất thấp, hậu quả của 30 năm chiến tranh hết sức nặng
nề, lại phải tiến hành chiến tranh bảo vệ tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên
giới phía Bắc. Trên thế giới các nước XHCN lâm vào tình trang khó khăn, trì trệ,
tình hình đó đặt ra cho Đảng và nhân dân ta phải tìm cách đi phù hợp với hoàn cảnh
nước ta.
- Tại ĐH IV của
đảng (12/1976) Đảng đã đề ra đường lối chung và đường lối xây dựng nền kinh tế
XHCN, đề ra những chỉ tiêu cụ thể cho kế hoạch 5 năm (1976-1980). Tuy nhiên, những
kết quả mang lại còn thấp so với yêu cầu và chưa tương xứng với công sức bỏ ra,
hầu như các chỉ tiêu của kế họach 5 năm đều không thực hiện được. Nền kinh tế
nước ta lâm vào khủng hoảng, trước thực tế đó, đòi hỏi toàn đảng, toàn dân ta
phải tìm ra con đường đổi mới đất nước.
- Tháng
8/1979, Hội nghị khoá TW 6 khoá IV họp
bàn những vấn đề cấp bách về kinh tế xã hội và vấn đề tiêu dùng, Hội nghị khẳng
định sự cần thiết phải tồn tại thị trường tự do, khuyến khích sản xuất, khắc phục
những khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo XHCN, đề ra chủ trương
phù hợp để phát triển lực lượng sản xuất, Hội nghị TW6 đánh dấu bước đột phá đầu
tiên của quá trình tìm tòi đường lối đổi mới của Đảng.
- Thực hiện
chủ trương của Hội nghị TW6, Chính phủ đã có những quyết định kịp thời về việc
bãi bỏ các trạm kiểm soát có tính chất ngăn sông cấm chợ, cản trở lưu thông
hàng hoá, khuyến khích tận dụng ruộng đất nông nghiệp vào sản xuất; mở rộng
kinh doanh thương nghiệp XHCN, chính sách phân phối theo lao động, kích thích sản
xuất phát triển.
- Ngày
13/1/1981, Ban bí thư TW Đảng ra chỉ thị 100/CT-TW về khoán sản phẩm đến nhóm
và người lao động trong hợp tác xã. Chỉ thị 100 đã tạo ra động lực mới trong sản
xuất nông nghiệp.
- Trong công
nghiệp, Chính phủ ban hành quyết định 25/CP và 26/CP ngày 21/1/1981 về chủ
trương, biện pháp cải tiến cơ chế quản lý trong kinh tế quốc doanh, điểm mới
trong quản lý công nghiệp là làm giảm tình trạng trì trệ trong sản xuất của các
doanh nghiệp Nhà nước. Năm 1981 lần đầu tiên sau chiến tranh, sản xuất công
nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
-Tại ĐH V của
đảng họp tại Hà Nội từ ngày 27-31/3/1982, chủ trương tiếp tục tìm tòi cơ chế quản
lý mới cho thích hợp, xoá bỏ cơ chế cũ, điều chỉnh lại cơ cấu, quy mô, tốc độ
và các bước đi của công nghiệp hóa. Đại hội đã phân chia thời kỳ quá độ thành
nhiều chặng và xác định chúng ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Nhiệm vụ chặng đường đầu tiên tạo tiền đề cơ sở vật chất chuyển sang Công nghiệp
hoá.
- Việc thực
hiện nghị quyết Đại hội V, tình hình kinh tế XH có những chuyển biến nhất định.
Tuy nhiên trên lĩnh vực lưu thông phân phối còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết.
Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước cải cách giá lương-tiền lần thứ 1 năm 1981
và năm 1982 nhưng đã làm cho lạm phát trầm trọng thêm, trước tình hình đó tháng
6/1985, Hội nghị TW8 họp chuyên bàn về giá-lương-tiền, quyết định phải dứt
khoát xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện chế độ tập trung dân chủ,
hoạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN. Hội nghị TW8 cho thấy Đảng đã có sự đổi
mới tư duy trên lĩnh vực phân phối lưu thông một cách cơ bản, đã thừa nhận sản
xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá. Hội nghị TW8 đánh dấu bước
đột phá thứ 2 trong quá trình đổi mới tư duy của Đảng.
- Ngày
10/7/1986, Tổng bí thư Lê Duẫn qua đời. Tại phiên họp đặc biệt của TW Đảng ngày
14/7/1986, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng bí thư, ngày 20/9/1986, Bộ
Chính trị đã có những kết luận về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế.
+ Về cơ cấu kinh tế: cần bố trí đúng cơ cấu các ngành
kinh tế, cơ cấu sản xuất và đầu tư; đặc trưng cần nắm vững là nền kinh tế cơ cấu
nhiều thành phần.
+ Về cơ chế quản lý: xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác quản lý và sử dụng
quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thị trường trong cơ chế kế hoạch hoá. Trong điều chỉnh
lớn phương án bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư phải thực sự lấy nông nghiệp
làm mặt trận hàng đầu.
Những kết luận
này là bước đột phá thứ 3 trong quá trình tìm đường đổi mới.
- Tại ĐH VI
(12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước một cách triệt để, sâu
sắc, mang ý nghĩa như một cuộc cách mạng. Trong đổi mới toàn diện, Đảng bắt đầu
tự đổi mới tư duy về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Viêt Nam. Trên nền tảng
các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin và nhất là kinh nghiệm thực tiễn
ở Việt Nam. Trong đổi mới tư duy, Đại hội VI chọn khâu đột phá là đổi mới tư
duy kinh tế:
+ Thừa nhận
kinh tế nhiều thành phần.
+ Chuyển nền
kinh tế từ tập trung bao cấp, kế hoạch hoá cao độ sang hoạch toán kinh doanh
XHCN.
+ Mở của nền
kinh tế Việt Nam với khu vực và trên thế giới.
+ Tập trung
vào 3 chương trình kinh tế lớn: sản xuất lương thực thực phẩm, sản xuất hàng
tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu.
+ Đổi mới
toàn diện triệt để sâu sắc nhưng có nguyên tắc, lấy đổi mới kinh tế là trọng
tâm hàng đầu trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị. Để giữ vững ổn định chính
trị phải đảm bảo các nguyên tắc sau: Kiên trì độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH; Đổi mới trên quan điểm lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin, giữ vũng vai trò
lãnh đạo của đảng ta, bản chất Nhà nước cách mạng của ta, kết hợp sức mạnh của
dân tộc và của thời đại trong điều kiện mới.
- Tại ĐH VII (6/1991) của Đảng tiếp tục bổ
sung đường lối đổi mới của Đảng ta.
+ Đề ra và
thông qua Cương lĩnh thứ 4 của Đảng ta: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên XHCN. Trong cương lĩnh này lần đầu tiên trong lịch sử của đảng ta
đã đưa ra mô hình và con đường đi lên CNXH riêng cho Việt Nam với 6 đặc trưng
cơ bản và 7 phương hướng cơ bản. Cương lĩnh năm 1991 đã tạo ra cơ sở lý luận và
nền tảng lý luận cho đổi mới.
+ Tại ĐH VI lần đầu tiên của đảng ta đưa ra khái niệm tư
tưởng HCM.
+ Lần đầu
tiên đảng ta xây dựng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội từ năn
1991 – 2000 với mục tiêu: Đưa Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội. Đây
là chặn đường đầu tiên của thời kỳ quá độ của đảng ta.
+ ĐH đánh dấu
sự coi trọng của đảng với công tác xây dựng đảng, chỉnh đốn đảng.
+ Tại ĐH VI
đã cũng cố niềm tin, khơi dậy các nguồn lực trong đảng, trong nhân dân. Kiên
trì CNXH khi Đông Âu đã tan rã và Liên Xô sắp sụp đỗ.
- Tại ĐH VIII (28/6 đến 1/7/1996) của đảng đã tổng
kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới và thực hiện nghị quyết của ĐH VII , quyết
định mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện CNH-HĐH đất nước đến năm 2010
và 2020, bổ sung sửa đổi điều lệ đảng.
- Nước ta ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tuy còn một số chưa vững chắc, thế và lực được
tăng cường cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Đại hội đã
đưa ra mục tiêu:
+ Đến năm
2020 Việt Nam trở thành nước công nghiệp cơ bản phát triển theo hướng hiện đại.
+ ĐH VIII đã
chỉ ra mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
+ ĐH VIII tổng
kết phương châm: phát triển kinh tế là trọng tâm; xây dựng đảng, chỉnh đốn đảng
là nhiệm vụ then chốt ( tập trung phát triển lực lượng sản xuất từng bước hình
thành quan hệ sản xuất phù hợp).
+ ĐH VIII đã
bổ sung thêm cho đường lối đổi mới là chiến lược CNH-HĐH đất nước.
- Đại hội IX (4/2001).
+ ĐH đã tổng
kết cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, rút ra
3 thành tựu to lớn mang ý nghĩa lịch sử, thắng lợi CMT8/1945; thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai; thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới đi lên CNXH ở nước ta.
+ ĐH đã dự
báo về thời cuộc và thời đại, những đòi hỏi của cách mạng Việt Nam trong những
năm đầu thế kỷ XXI. Đề ra quan điểm kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới trên cơ sở phát huy nội lực là
chính, tranh thủ ngoại lực, chủ động tích cực hôi nhập kinh tế quốc tế.
+ ĐH đã đưa
ra thuật ngữ kinh tế thị trường định hướng XHCN và coi đây là mô hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong suốt quá trình quá độ lên CNXH.
+ Đưa mục
tiêu dân chủ vào mục tiêu chung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
+ ĐH đã đề ra
chiến lước phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi
tình trạng nước nghèo kém phát triển.
- Đại hội X (4/2006).
+ ĐH đã tổng
kết 20 năm đổi mới và bổ sung cho những đặc trưng cho CNXH ở nước ta gồm 8 đặc
trưng và 8 phương hướng, chỉ đạo sự nghiệp xây dựng CNXH.
+ Đề ra nhiệm
vụ phấn đấu đến 2020 Việt Nam thoát khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển để
trở thành nước có thu nhập trung bình.
+ ĐH X rất
coi trọng công tác xây dựng đảng và chỉnh đốn đảng trong quá trình đảng cầm quyền;
phát triển kinh tế thị trường, định hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế
- Đại hội XI
(1/2011).
+ Đại hội đã
tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991.
+ ĐH đã bổ
sung và phát triển cương lĩnh năm 1991 trên tất cả các nội dung. Đặc biệt là
trong mô hình, phương hướng chỉ đạo sự nghiệp xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ
của nước ta: 8 đặc trưng, 8 phương hướng cơ bản và 8 mối quan hệ lớn.
+ ĐH đã đề ra
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 với mục tiêu biến Việt Nam trở
thành nước công nghiệp cơ bản phát triển theo hướng hiện đại vào năm 2020.
+ Bổ sung và
sửa đổi điều lệ đảng.
A.
Kết luận – Liên hệ thực tiễn:
Có thể nói, quá trình tìm tòi đường lối đổi mới
và sự phát triển nhận thức của đảng ta về con đường đi lên CNXH ngày càng sáng
tỏ qua các kỳ Đại hội. Nó mang lại những thành tựu mang ý nghĩa to lớn: Việt
nam từ một quốc gia bị phong toả cấm vận, từ một nền kinh tế kém phát triển và
đóng cửa. Sau 25 năm đổi mới Việt Nam đã vươn mạnh ra thế giới, đến nay Việt
Nam có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước và vùng lãnh thổ, mở rộng quan hệ
kinh tế thương mại với 220 quốc gia. Việt Nam còn là thành viên chính thức của
nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt
Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức thương mại Thế giới
(WTO).
+ Phúc lợi xã
hội và đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt theo
đánh giá của Liên Hiệp Quốc, Vịêt Nam đã về đích 10 năm với mục tiêu xoá đói giảm
nghèo trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ.
+ Độc lập chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội được giữ vững, lợi thế và
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất
nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ
theo con đường XHCN.
Đổi mới làm cho bộ mặt đất nước và con người Việt Nam
hoàn toàn thay đổi. Dư luận thế giới cũng đồng tình và thừa nhận những thành tựu
đổi mới của ĐN ta. Điều đó khiến cho mỗi người VN chúng ta thêm tự hào về Đảng,
về đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng.Là 1 đảng viên, tôi hoàn toàn tin tưởng
về con đường đi đúng đắn của DT, chắc chắn VN chúng ta sẽ xây dựng thành công
Chủ nghĩa Xã hội như mong mỏi của Bác trước lúc Người ra đi.