ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC–
LÊNIN
PHẦN 3
Họ tên: Nguyễn Thị Hồng Tươi
Lớp: H689
CÂU 1: Phân tích những điều kiện khách quan và chủ
quan của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân. Liên hệ sứ mệnh lịch sử giai cấp
công nhân Việt Nam hiện nay.
|
* Sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của 1 giai cấp:
- Trong xã hội có
giai cấp lịch sử giao cho 1 giai cấp sứ mệnh xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới văn minh tiến bộ hơn.
Vd: Giai cấp chủ nô
là giai cấp lãnh đạo trong xã hội chiếm hữu nô lệ, có sứ mệnh lịch sử xây
dựng xã hội chiếm hữu nô lệ văn minh tiến bộ hơn xã hội công xã nguyên thủy;
Giai cấp quý tộc địa chủ phong kiến trong xã hội phong kiến là giai cấp lãnh
đạo cầm quyền có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chế độ chủ nghĩa nô lệ, xây dựng xã
hội phong kiến văn minh tiến bộ hơn; Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản giữ
vai trò thống trị xã hội, trong xã hội chủ nghĩa giai cấp công nhân, Đảng
công sản giữ vai trò lãnh đạo, lịch sử trao cho giai cấp công nhân sứ mệnh
lịch sử. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là tất yếu khách quan.
* Sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân:
Sứ mệnh lịch sử
toàn thế giới của giai cấp công nhân: giai cấp công nhân phải trở thành giai
cấp lãnh đạo thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản phải đấu tranh để tự
giai phóng cho giai cấp mình và đấu tranh cho toàn xã hội thoát khỏi áp bức
bất công, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa công sản trên phạm vi toàn thế giới. Nội dung sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân trên lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân là chủ thể sản
xuất ra của cải vật chất là xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội và
từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân trên lĩnh vực chính trị - xã hội: giai cấp công nhân phải lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giành chính quyền từ tay giai cấp tư sản và địa chủ phong
kiến sau khi có chính quyền xây dựng nhà nước XHCN và nền dân chủ XHCN. Nội
dung văn hóa – tư tưởng: xây dựng nền văn hóa mới – văn hóa vô sản, đấu tranh
với văn hóa phi vô sản; xây dựng hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác- lenin, đấu
tranh với tư tưởng của giai cấp tư sản và của phong kiến.
Sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân có 3 đặc điểm:
- Cách mạnh vô sản
là cuộc cách mạng đem lại lợi ích cho đa số, so với tất cả các cuộc cách mạng
trước đây đem lại lợi ích cho thiểu số.
- Xóa bỏ chế độ tư
hữu, xây dựng chế độ công hữu.
- Cách mạng vô sản
nhằm giải phóng cho con người, đem lại điều kiện phát triển tự do của từng cá
nhân.
* Điều kiện khách
quan quy định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân do địa vị
kinh tế xã hội quy định giai cấp công nhân thông quan Đảng cộng sản phải trở
thành giai cấp lãnh đạo, xóa bỏ CNTB xây dựng XHCN và XHCS
- Lịch sử xã hội
loài người phát triển không ngừng từ thấp đến cao, không có 1 chế độ xã hội,
1 giai cấp nào tồn tại vĩnh cửu mãi mãi vì vậy CNTB giai cấp tư sản nhất định
sẽ bị diệt vong, CHXH giai cấp CN, Đảng cộng sản lãnh đạo là tất yếu khoa
học.
- Vì sao xã hội
loài người vận động phát triển không ngừng từ thấp đến cao là tuân theo quy
định do Mác- Angen phát hiện ra, quy luật trình độ sản xuất phù hợp lực lượng
sản xuất. CNTB thay thế XHPK cũng tuân theo quy luật trên; CNTB ra đời phát
triển đến 1 giai đoạn nhất định do lực lượng sản xuất trong XHTB phát triển mang
tính chất xã hội hóa ngày càng cao (xã hội hóa có nghĩa là tập thể hợp tác,
công hữu ra đời phủ định tư hữu tư sản mà giai cấp công nhân, ĐCS đại biểu
cho lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ công hữu cho nên
giai cấp công nhân, ĐCS giữ vai trò lãnh đạo, giai cấp tư sản hết vai trò
lịch sử của nó, đó là địa vị kinh tế quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân.
- Xét về địa vị xã
hội quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là do mâu thuẩn của giai
cấp tư sản thống trị áp bức bóc lột với giai cấp vô sản đi làm thuê bị áp bức
lóc lột do đó chính giai cấp công nhân đứng dậy đấu tranh lật đổ giai cấp tư
sản, xóa bỏ CNTB để làm cho lực lượng sản xuất khoa học kỹ thuật tiếp tục
phát triển.
Tóm lại, sứ mệnh
lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là do địa vị kinh tế quy định 1
cách khách quan khoa học.
* Nhân tố chủ quan:
Phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân khi chưa có Đảng cộng sản ra đời là phong trào
đấu tranh tự phát.
Đấu tranh tự phát
không xóa bỏ đượa CNTB và giai cấp tư sản, không xóa bỏ được áp bức bóc lột.
Bản thân phong trào
đấu tranh của giai cấp công nhân đòi hỏi ĐCS ra đời, đòi hỏi phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân phải có tổ chức lãnh đạo; quy luật ra đời của
ĐCS là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân kết hợp CN Mác – Lenin dẫn
đến sự ra đời của ĐCS; một số tổ chức cộng sản quốc tế đầu tiên như: Quốc tế
I có Mác- Angen tham gia ra đời 1864 ở thủ đô Luân Đôn nước Anh, Quốc tế II
ra đời 1889 ở thủ đô Pari nước Pháp, Quốc tế III ra đời năm 1919 ở Maxcova do
Lenin là người sáng lập (Quốc tế III hay còn gọi là quốc tế cộng sản). Đảng
cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác –Lenin, phong trào công
nhân và phong trào yêu nước do Nguyễn Ái Quốc là người thành lập ngày
3/2/1930 ở Cửu Long, Hương Cảng,Trung quốc. Khi giai cấp công nhân thành lập
ở chính đảng, phong trào đấu tranh chuyển từ tự phát lên tự giác, từ đây
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân đã có lý luận của chủ
nghĩa Mác-lenin soi đường, cuộc đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo.
* Liên hệ thực
tiễn:
Trong giai đoạn cách
mạng hiện nay nhất là thời kỳ CNH - HĐH, đặc biệt là sau gần 30 năm thực hiện
đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, giai cấp công nhân Việt Nam
không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đang có mặt trong tất cả
các ngành nghề, các thành phần kinh tế, là lực lượng quan trọng, đi đầu trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam
lao động cần cù, sáng tạo, sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch
vụ cho xã hội và xuất khẩu với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Cần đẩy
mạnh tri thức hóa công nhân. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng,
phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công
nghiệp, kỷ luật lao động; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của công nhân.
|
CÂU 2: Phân tích quan
điểm của Đảng ta: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng CSNV và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu
hướng phát triển của lịch sử”.
|
CNXH và con đường đi lên CNXH
ở nước ta là vấn đề lí luận và thực tiễn rất cơ bảntrong yếu, liên quan trực tiếp đến đường lối chính trị
của Đảng, phương hướng phát triển của đất nước. Đây là vấn đề trọng tâm cốt
lõi trong đường lối CM nước ta; nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị,
văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng....của Đảng
ta.
Một là, chúng ta xác định xây dựng và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu nhất quán, điều mà Đảng ta
đã xác định từ khi bước vào công cuộc đổi mới, cũng như cho hiện tại và mai
sau. Thực hiện công cuộc đổi mới chính là chúng ta đang tìm mô hình phát triển
của chủ nghĩa xã hội trong hiện tại và tương lai. Xây dựng là một xã hội: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ, có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiên tiến phù hợp; có văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới.
Hai là, tiếp tục giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, không thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Đảng ta vẫn
là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp xây dựng,
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh nghiệm lịch sử
trong một vài thập niên gần đây cho thấy, một chế độ chính trị - xã hội đang
thực hiện nhất nguyên chính trị, do một đảng lãnh đạo mà chuyển sang thực hiện
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì rất có thể dẫn đến thảm họa. Song, để
không dẫn đến đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, điều cơ bản là Đảng ta phải
thực sự là đội tiên phong cách mạng, đủ sức lãnh đạo đưa Việt Nam trở thành một
nước hùng cường trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, trước hết
phải đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Ba là, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng trong Đảng, đồng thời là cơ sở để xây dựng hệ tư
tưởng của toàn xã hội. Xã hội hiện đại càng tiến hóa, càng phát triển thì một
số kết luận cụ thể nào đó của chủ nghĩa Mác - Lê-nin có thể không còn hoàn
toàn phù hợp trong mọi lúc, mọi nơi, mọi trường hợp, song những giá trị cơ bản,
căn cốt của học thuyết này ngày càng được chứng minh rõ hơn, những dự báo của
của các nhà kinh điển ngày càng tiến gần đến chân lý hơn, sát thực hơn. Tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới, sẽ trường tồn cùng dân tộc. Ngay cả những giá trị khoa học và nhân văn
của các nhà tư tưởng trong lịch sử, tuy thời đại đã qua, nhưng những nhân tố
cốt lõi của chúng vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tiếp theo của
nhân loại.
Bốn là, lực lượng vũ trang phải đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Quân đội nhân dân Việt Nam
và Công an nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xây dựng và
rèn luyện, là kết quả của quá trình đấu tranh cách mạng: đấu tranh kinh tế, đấu
tranh chính trị và tiến tới đấu tranh vũ trang giành chính quyền. Đấu tranh
vũ trang là sự tiếp tục của đấu tranh chính trị dưới hình thức mới. Sự ra đời
của lực lượng vũ trang là từ chính trị, chứ không phải từ phi chính trị. Đến
nay, Đảng ta đã là Đảng cầm quyền.
Năm là, về quan hệ quốc tế, đảng ta khẳng định: “Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, bước vào công cuộc đổi mới cũng như hiện nay
phải bảo đảm cho đất nước vừa ổn định, vừa phát triển, do vậy, phải có bước
đi đúng cả trong lĩnh vực kinh tế và chính trị. Về kinh tế, chúng ta đang tái
cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó có một nhiệm vụ
quan trọng là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, song không phải thực hiện một
cách tức thời, mà phải tiến hành từng bước, không thể nóng vội, mà cần có tầm
nhìn chiến lược sâu sắc. Có thể khẳng định, những vấn đề nói trên là cốt lõi
của những quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng ta, đồng thời cũng là những
phương châm có tính nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi mới, nhưng mỗi
giai đoạn lại được phát triển, hoàn thiện kịp thời để giải quyết những nhiệm
vụ mới.
|
CÂU 3: Phân tích quan điểm của Lênin: “Dân chủ vô
sản so với chế độ dân chủ tư sản nào tiến bộ nhất cũng dân chủ hơn gấp triệu
lần”? Liên hệ với nền dân chủ ở nước ta hiện nay?
|
* Sự khác nhau căn bản giữa hai
nền dân chủ là:
-
Dân chủ thuộc về ai:
Dân chủ
xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của đại đa số nhân dân lao động, đại diện và
phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động, đại diện và phục vụ cho lợi ích
nhân dân lao động. Còn nền dân chủ tư sản, hay bất cứ nển dân chủ nào cũng
diều là nền dân chủ của thiểu số gcts hay các giai cấp khác nếu có trong XH,
đại diện và phục vụ cho giai cấp đó mà thôi.
Dân chủ
tư sản phục vụ cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản và giai cấp này nắm
mọi quyền hành trong tay chi phối toàn xã hội. Đó là một nền dân chủ số ít,
chuyên chính số đông. Dân chủ giả hiệu nửa vời: đó là những lời hứa suông,
lợi ích là một thứ bánh vẽ. Trái lại và có sự đầy đủ, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, với tư cách là chế độ nhà nước đc sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao
động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi
quyền lực đều thuộc về tay nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế
chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp nhân dân lãnh đạo thông qua chính đảng
của họ. Điều đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp
công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Bản chất giai cấp của
dân chủ:
Dân chủ
tư sản phục vụ cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản và giai cấp này nắm
mọi quyền hành trong tay chi phối toàn xã hội. Đó là một nền dân chủ số ít,
chuyên chính số đông. Dân chủ giả hiệu nửa vời: đó là những lời hứa suông,
lợi ích là một thứ bánh vẽ. Trái lại và có sự đầy đủ, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, với tư cách là chế độ nhà nước đc sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao
động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi
quyền lực đều thuộc về tay nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế
chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp nhân dân lãnh đạo thông qua chính đảng
của họ. Điều đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp
công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Cơ sở khách quan quy
định bản chất giai cấp dân chủ:
Cơ sở
khách quan quy định bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ
công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, phù hợp với tính chất, trình độ
phát triển cao của lực lượng sản xuất, cho phép tạo nên sự bình đẳng về
quyền lực của đại đa số nhân dân lao động.
Còn cơ
sở khách quan quy định bản chất của chế độ dân chủ tư sản là chế độ tư hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, thừa nhận chế độ người bóc lột người, tạo nên sự
bất bình đẳng, đối kháng sâu sắc về lợi ích trong xã hội .
- Cơ sở chính trị - xã
hội của chế độ dân chủ:
Cơ sở
chính trị - xã hội của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của giai
cấp công nhân, khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân,
đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân thông qua chính đảng cộng sản.
Còn cơ
sở chính trị - xh của gcấp tư sản là bản chất của giai cấp tư sản.
- Hình thức , cơ chế
thực hiện dân chủ
Dân chủ
xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Còn đối
với dân chủ tư sản là đó là nhà nước pháp quyền tư sản.
- Mục tiêu dân chủ:
Mục tiêu
dân chủ xã hội chủ nghĩa là hướng tới giải phóng xã hội, giải phóng con người
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phù hợp với nguyện vọng
lợi ích chính đáng của nhân dân. Thực hiện một nền dân chủ thật sự trên mọi
mặt đời sống xã hội.
Còn mục
tiêu dân chủ tư sản là nhằm duy trì thiết lập, bảo vệ lợi ích , sự áp bức bóc
lột của giai cấp tư sản, sự bất công trong xã hội, sự bất bình đẳng giữa các
quốc gia, dân tộc, kìm hãm sự tiến bộ, văn minh của nhân loại. Thực hiện một
nền dân chủ giả hiệu, giả dối và cắt xén.
* Liên hệ với nền
dân chủ ở nước ta hiện nay:
Dân chủ luôn là vấn
đề lớn được đề cập trong văn kiện của các Đại hội Đảng ta. Suốt quá trình đổi mới đất nước từ 1986
đến nay, nhận thức về dân chủ của Đảng ta ngày càng hoàn thiện, đã trở thành
chủ trương, chính sách và đi vào thực tiễn cuộc sống. Thực hiện đường lối đổi
mới của Đảng, dân chủ XHCN ở nước ta ngày càng được phát triển, mở rộng, trở
thành động lực cho phát triển đất nước.
Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan
điểm về dân chủ của các Đại hội Đảng đã qua, thành tựu và những vấn đề thực
tiễn mới nảy sinh, các văn kiện của Đại hội XI đã thể hiện một hệ thống những
quan điểm lý luận về dân chủ vừa có tính nguyên tắc chung, vừa có tính thực
tiễn ở tầm chủ trương, chính sách cụ thể, thể hiện trên một số khía cạnh cơ
bản như sau:
Dân
chủ với nghĩa dân là chủ, dân làm chủ là bản chất của chế độ
XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã chỉ ra quan niệm mới về CNXH, trong đó dân chủ
có một vị trí xứng đáng hơn: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Với quan điểm đó, Đảng ta chủ trương xây dựng nền dân chủ như
một nội dung quan trọng của quá trình phát triển đất nước trong suốt thời kỳ
quá độ lên CNXH.
Trong mối quan hệ giữa dân chủ và hệ thống chính trị, từ Đại hội
VII (1991), Đảng ta đã xác định đổi mới hệ thống chính trị là hướng tới xây
dựng nền dân chủ XHCN, là làm cho dân chủ của hệ thống chính trị phát triển
hơn nữa.
Trong hệ thống chính trị, nhà nước là một công cụ thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, là thành phần cơ bản và chủ yếu của cơ chế dân
chủ gián tiếp. Các văn kiện của Đại hội XI đều đề cập tới Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam với bản chất và nguyên tắc tổ chức là một nhà nước dân chủ :
“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà
nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban
hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, để thể hiện dân chủ, Nhà nước phải hoàn thiện về mặt
pháp lý cơ chế hoạt động của chính bộ máy nhà nước. Đó là sự phân công, phối
hợp, kiểm tra và giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan, các thể chế nhà nước như
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát. Cương lĩnh đã dùng khái niệm
“kiểm soát” giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp nhằm bảo đảm dân chủ trong cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước.
Đây là một điểm mới đáng ghi nhận trong tư duy về tổ chức nhà nước của Đảng
ta.
Nền dân chủ XHCN ở Việt Nam trong nhiều thập kỷ nay
không tách rời với vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân. Bên cạnh chức năng xã hội, các tổ chức đó còn có chức năng
chính trị, là các thể chế của nền dân chủ.
Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng chứng minh, sự phát triển dân
chủ phụ thuộc một phần quan trọng vào thực hành dân chủ trong Đảng. Mỗi bước
mở rộng dân chủ trong Đảng sẽ là nguồn động viên, khích lệ đối với việc mở
rộng dân chủ trong hệ thống chính trị và trong xã hội nói chung. Thắng lợi
của Đại hội XI của Đảng đã chứng minh tính đúng đắn của việc phát huy dân chủ
trong Đảng.
|
CÂU 4: Phân tích tính tất yếu và tầm quan trọng của
liên minh Công – Nông - Trí thức trong thời kỳ quá độ lện CNXH ở nước ta hiện
nay?
|
Liên minh giữa Giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức là hình thức hợp tác đặc biệt trong công cuộc đấu tranh
nhằm lật đổ chế độ Tư bản chủ nghĩa xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, Chủ
nghĩa cộng sản.
Tính tất yếu được thể hiện:
Liên minh CNT trong thời kỳ quá độ lên CNXH là sự đoàn
kết, hợp lực, hợp tác, liên kết…giữa gc công nhân với gc nông dân và đội ngũ
trí thức nhằm thực hiện nhửng nhiệm vụ, giải quyết các vấn đề về lợi ích
không chỉ cho một lực lượng mà còn cho cả các lực lượng tham gia, đồng thời
góp phần vào sự nghiệp chung xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên minh CNT trong thời kỳ quá độ lên CNXH mang tính
tất yếu từ điều kiện và đòi hỏi khách quan của chính giai đoạn lịch sử đặc biệt
này.
Công nhân, nông dân đội ngũ trí thức điều là giai tầng
của những người lao động có nhu cầu, khác vọng cơ bản thống nhất cho nên công
nhân, nông dân trí tức dễ đồng cảm, đ iđến đoàn kết, hợp tác vì sự nghiệp
phát triển nói chung và lợi ích của mình nói riêng.
Từ thực tiễn của công cuộc xây dựng CNXH càng thấy rõ
tầm quan trọng đặc biệt của liên minh CNT . V.Lê nin từng nói “ Chuyên chính
vô sả là một hình thức đặc biệt của liên minh giữa gcvs, đội tiền phong của
những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản
(tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân trí
thức).
Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ
lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu
dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng
không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của
thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn
chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp
tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau.
Để xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp
công nhân phải coi việc xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề
có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và đặc biệt hơn
đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH
*
Nội dung:
Liên minh công – nông – trí thức ở Việt nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, tạo động
lực to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đi đến
thắng lợi.
Nguyên tắc cơ bản chung nhất của
liên minh công – nông trí là “ kết hợp đúng đắn các lợi ích” trên các
l ĩnh vực các nội dung của liên minh. Do
đó việc liên minh CNT cần phải đảm bảo các yếu tố sau mới đảm bảo thắng lợi:
Một là: mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của
GCCN, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc ta là: Độc lập
dân tộc và CNXH. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó khi
thực hiện liên minh lại không thể dung hòa lập trường chính trị của 3 giai
tầng mà phải trên lập trường tư tưởng chính trị của GCCN. Bởi vì, chỉ có phấn
đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng của GCCN thì mới thực hiện được đồng
thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của công nhân, nông dân, trí thức và
của dân tộc là lập dân tộc và CNXH.
Hai là: Khối liên minh chiến lược này phải đo Đảng của
GCCN lãnh đạo thì mới có đường lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên
minh, thực hiện quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng CNXH thành
công. Do đó, Đảng Cộng sản từ trung ương đến cơ sở phải vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo khối liên minh và lãnh đạo xã hội là vấn
đề có ý nghĩa như 1 nguyên tắc về chính trị của liên minh. Trong thời kỳ quá
độ lên CNXH, liên minh công- nông- trí thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho
liên minh chính trị rộng lớn nhất là Mặt trận Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng
nền dân chủ XHCN, đồng thời là nền tảng cho nhà nước XHCN ngày càng được củng
cố lớn mạnh để bảo vệ tổ chức và xây dựng CNXH.
Ba là: nội dung chính trị của liên minh không tách rời
nội dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Dưới
góc độ của liên minh, cần cụ thể hóa việc đổi mới về nội dung tổ chức và
phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong GCCN, nông dân và trí
thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là triển khai thực hiện “Quy
chế dân chủ ở cơ sở”, nhất là ở nông thôn.
- Nội dung
kinh tế của liên minh:
Nội dung kinh tế là nội dung cơ
bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc của liên minh
trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta trong thời kỳ
quá độ được cụ thể hóa ở những điểm sau đây:
+ Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của
cả nước và của sự hợp tác quốc tế, từ đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn
liền với những nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và của toàn
xã hội. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là “Công- nông
nghiệp- dịch vụ”. Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định “Từng bước
phát triển kinh tế tri thức, từ đó ma tăng cường liên minh công- nông- trí
thức”
+ Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển
dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu… trong sản xuất, lưu thông
phân phối giữa công nhân, nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực công nghiệp,
nông nghiệp, khoa học công nghệ và các lĩnh vực khác; giữa các địa bàn, vùng,
miền dân cư trong cả nước, giữa nước ta và các nước khác.
+ Từng bước hình thành QHSX XHCN trong quá trình thực
hiện liên minh. Việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải
được thể hiện qua việc đa dạng và đổi mới các hình thức hợp tác kinh tế, hợp
tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn. Trong quá trình
hình thành QHSX phải trên cơ sở công hữu hóa các TLSX chủ yếu, kinh tế nhà
nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền
kinh tế cả nước, theo định hướng XHCN.
+ Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện
ở vai trò của Nhà nước. Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc
thực hiện liên minh. Vai trò của Nhà nước đối với nông dân thể hiện qua chính
sách khuyến nông, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế Nhà nước, Nhà
nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nông dân, tạo
điều kiện cho liên minh phát triển. Nông nghiệp và nông thôn không chỉ là một
ngành kinh tế, một khu vực kinh tế mà còn là một lĩnh vực mang ý nghĩa sinh
thái xã hội.
Đối với tri thức, Nhà nước cần phải đổi mới và hoàn
chỉnh các luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như
chính sách phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, về bản
quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về văn học nghệ thuật… Hướng các hoạt
động của trí thức vào việc phục vụ công- nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời
sống toàn xã hội.
- Nội dung
văn hóa, xã hội của liên minh:
Liên minh về văn hóa, xã hội thể hiện qua các nội dung
cụ thể sau đây:
+ Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng
xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh
thái.
+ Nội dung xã hội mang ý nghĩa
kinh tế và chính trị cấp thiết trước mắt của liên minh là tạo nhiều việc làm
có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm
nghèo cho công nhân, nông dân và trí thức.
+ Đổi mới và thực hiện
tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã hội trong công nhân,
nông dân, trí thức cũng là nội dung xã hội cần thiết, đồng thời còn mang ý
nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống… cho toàn xã hội và thế hệ mai
sau.
+ Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước
mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xóa mù chữ, trước hết là đối với
nông dân, nhất là ở miền núi. Nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục
lạc hậu, các biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Gắn quy hoạch phát triển công
nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch phát triển nông thôn, đô thị hóa,
công nghiệp hóa nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện
đại.Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các công trình phúc
lợi công cộng 1 cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là
vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục
tiêu của định hướng XHCN và mới làm cho công- nông- trí thức cũng như các
vùng, miền, dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét