Thứ Hai, 5 tháng 2, 2018

Đáp án câu hỏi thảo luận lần 03

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC– LÊNIN
PHẦN 3

Họ tên: Nguyễn Thị Hồng Tươi
Lớp: H689
CÂU 1:  Phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân. Liên hệ sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
* Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của 1 giai cấp:
- Trong xã hội có giai cấp lịch sử giao cho 1 giai cấp sứ mệnh xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới văn minh tiến bộ hơn.
Vd: Giai cấp chủ nô là giai cấp lãnh đạo trong xã hội chiếm hữu nô lệ, có sứ mệnh lịch sử xây dựng xã hội chiếm hữu nô lệ văn minh tiến bộ hơn xã hội công xã nguyên thủy; Giai cấp quý tộc địa chủ phong kiến trong xã hội phong kiến là giai cấp lãnh đạo cầm quyền có sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chế độ chủ nghĩa nô lệ, xây dựng xã hội phong kiến văn minh tiến bộ hơn; Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản giữ vai trò thống trị xã hội, trong xã hội chủ nghĩa giai cấp công nhân, Đảng công sản giữ vai trò lãnh đạo, lịch sử trao cho giai cấp công nhân sứ mệnh lịch sử. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là tất yếu khách quan.
* Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân: giai cấp công nhân phải trở thành giai cấp lãnh đạo thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản phải đấu tranh để tự giai phóng cho giai cấp mình và đấu tranh cho toàn xã hội thoát khỏi áp bức bất công, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa công sản trên phạm vi toàn thế giới. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân là chủ thể sản xuất ra của cải vật chất là xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên lĩnh vực chính trị - xã hội: giai cấp công nhân phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền từ tay giai cấp tư sản và địa chủ phong kiến sau khi có chính quyền xây dựng nhà nước XHCN và nền dân chủ XHCN. Nội dung văn hóa – tư tưởng: xây dựng nền văn hóa mới – văn hóa vô sản, đấu tranh với văn hóa phi vô sản; xây dựng hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác- lenin, đấu tranh với tư tưởng của giai cấp tư sản và của phong kiến.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có 3 đặc điểm:
- Cách mạnh vô sản là cuộc cách mạng đem lại lợi ích cho đa số, so với tất cả các cuộc cách mạng trước đây đem lại lợi ích cho thiểu số.
- Xóa bỏ chế độ tư hữu, xây dựng chế độ công hữu.
- Cách mạng vô sản nhằm giải phóng cho con người, đem lại điều kiện phát triển tự do của từng cá nhân.
* Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế xã hội quy định giai cấp công nhân thông quan Đảng cộng sản phải trở thành giai cấp lãnh đạo, xóa bỏ CNTB xây dựng XHCN và XHCS
- Lịch sử xã hội loài người phát triển không ngừng từ thấp đến cao, không có 1 chế độ xã hội, 1 giai cấp nào tồn tại vĩnh cửu mãi mãi vì vậy CNTB giai cấp tư sản nhất định sẽ bị diệt vong, CHXH giai cấp CN, Đảng cộng sản lãnh đạo là tất yếu khoa học.
- Vì sao xã hội loài người vận động phát triển không ngừng từ thấp đến cao là tuân theo quy định do Mác- Angen phát hiện ra, quy luật trình độ sản xuất phù hợp lực lượng sản xuất. CNTB thay thế XHPK cũng tuân theo quy luật trên; CNTB ra đời phát triển đến 1 giai đoạn nhất định do lực lượng sản xuất trong XHTB phát triển mang tính chất xã hội hóa ngày càng cao (xã hội hóa có nghĩa là tập thể hợp tác, công hữu ra đời phủ định tư hữu tư sản mà giai cấp công nhân, ĐCS đại biểu cho lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ công hữu cho nên giai cấp công nhân, ĐCS giữ vai trò lãnh đạo, giai cấp tư sản hết vai trò lịch sử của nó, đó là địa vị kinh tế quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
- Xét về địa vị xã hội quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là do mâu thuẩn của giai cấp tư sản thống trị áp bức bóc lột với giai cấp vô sản đi làm thuê bị áp bức lóc lột do đó chính giai cấp công nhân đứng dậy đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản, xóa bỏ CNTB để làm cho lực lượng sản xuất khoa học kỹ thuật tiếp tục phát triển.
Tóm lại, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân là do địa vị kinh tế quy định 1 cách khách quan khoa học.
* Nhân tố chủ quan:
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân khi chưa có Đảng cộng sản ra đời là phong trào đấu tranh tự phát.
Đấu tranh tự phát không xóa bỏ đượa CNTB và giai cấp tư sản, không xóa bỏ được áp bức bóc lột.
Bản thân phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đòi hỏi ĐCS ra đời, đòi hỏi phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phải có tổ chức lãnh đạo; quy luật ra đời của ĐCS là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân kết hợp CN Mác – Lenin dẫn đến sự ra đời của ĐCS; một số tổ chức cộng sản quốc tế đầu tiên như: Quốc tế I có Mác- Angen tham gia ra đời 1864 ở thủ đô Luân Đôn nước Anh, Quốc tế II ra đời 1889 ở thủ đô Pari nước Pháp, Quốc tế III ra đời năm 1919 ở Maxcova do Lenin là người sáng lập (Quốc tế III hay còn gọi là quốc tế cộng sản). Đảng cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác –Lenin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước do Nguyễn Ái Quốc là người thành lập ngày 3/2/1930 ở Cửu Long, Hương Cảng,Trung quốc. Khi giai cấp công nhân thành lập ở chính đảng, phong trào đấu tranh chuyển từ tự phát lên tự giác, từ đây phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân đã có lý luận của chủ nghĩa Mác-lenin soi đường, cuộc đấu tranh có tổ chức, có lãnh đạo.
* Liên hệ thực tiễn:
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay nhất là thời kỳ CNH - HĐH, đặc biệt là sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đang có mặt trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế, là lực lượng quan trọng, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giai cấp công nhân Việt Nam lao động cần cù, sáng tạo, sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho xã hội và xuất khẩu với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Cần đẩy mạnh tri thức hóa công nhân. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân.

CÂU 2:  Phân tích quan điểm của Đảng ta: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng CSNV và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu hướng phát triển của lịch sử.
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta là vấn đề lí luận và thực tiễn rất cơ bảntrong yếu, liên quan trực tiếp đến đường lối chính trị của Đảng, phương hướng phát triển của đất nước. Đây là vấn đề trọng tâm cốt lõi trong đường lối CM nước ta; nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, xây dựng Đảng....của Đảng ta.
Một là, chúng ta xác định xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu nhất quán, điều mà Đảng ta đã xác định từ khi bước vào công cuộc đổi mới, cũng như cho hiện tại và mai sau. Thực hiện công cuộc đổi mới chính là chúng ta đang tìm mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội trong hiện tại và tương lai. Xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiên tiến phù hợp; có văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Hai là, tiếp tục giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Đảng ta vẫn là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh nghiệm lịch sử trong một vài thập niên gần đây cho thấy, một chế độ chính trị - xã hội đang thực hiện nhất nguyên chính trị, do một đảng lãnh đạo mà chuyển sang thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì rất có thể dẫn đến thảm họa. Song, để không dẫn đến đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, điều cơ bản là Đảng ta phải thực sự là đội tiên phong cách mạng, đủ sức lãnh đạo đưa Việt Nam trở thành một nước hùng cường trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, trước hết phải đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Ba là, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng trong Đảng, đồng thời là cơ sở để xây dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội. Xã hội hiện đại càng tiến hóa, càng phát triển thì một số kết luận cụ thể nào đó của chủ nghĩa Mác - Lê-nin có thể không còn hoàn toàn phù hợp trong mọi lúc, mọi nơi, mọi trường hợp, song những giá trị cơ bản, căn cốt của học thuyết này ngày càng được chứng minh rõ hơn, những dự báo của của các nhà kinh điển ngày càng tiến gần đến chân lý hơn, sát thực hơn. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, sẽ trường tồn cùng dân tộc. Ngay cả những giá trị khoa học và nhân văn của các nhà tư tưởng trong lịch sử, tuy thời đại đã qua, nhưng những nhân tố cốt lõi của chúng vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tiếp theo của nhân loại.
Bốn là, lực lượng vũ trang phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xây dựng và rèn luyện, là kết quả của quá trình đấu tranh cách mạng: đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị và tiến tới đấu tranh vũ trang giành chính quyền. Đấu tranh vũ trang là sự tiếp tục của đấu tranh chính trị dưới hình thức mới. Sự ra đời của lực lượng vũ trang là từ chính trị, chứ không phải từ phi chính trị. Đến nay, Đảng ta đã là Đảng cầm quyền.
Năm là, về quan hệ quốc tế, đảng ta khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Sáu là, bước vào công cuộc đổi mới cũng như hiện nay phải bảo đảm cho đất nước vừa ổn định, vừa phát triển, do vậy, phải có bước đi đúng cả trong lĩnh vực kinh tế và chính trị. Về kinh tế, chúng ta đang tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó có một nhiệm vụ quan trọng là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, song không phải thực hiện một cách tức thời, mà phải tiến hành từng bước, không thể nóng vội, mà cần có tầm nhìn chiến lược sâu sắc. Có thể khẳng định, những vấn đề nói trên là cốt lõi của những quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng ta, đồng thời cũng là những phương châm có tính nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ quá trình đổi mới, nhưng mỗi giai đoạn lại được phát triển, hoàn thiện kịp thời để giải quyết những nhiệm vụ mới.

CÂU 3:  Phân tích quan điểm của Lênin: “Dân chủ vô sản so với chế độ dân chủ tư sản nào tiến bộ nhất cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”? Liên hệ với nền dân chủ ở nước ta hiện nay?

* Sự khác nhau căn bản giữa hai nền dân chủ là:
- Dân chủ thuộc về ai:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của đại đa số nhân dân lao động, đại diện và phục vụ cho lợi ích của nhân dân lao động, đại diện và phục vụ cho lợi ích nhân dân lao động. Còn nền dân chủ tư sản, hay bất cứ nển dân chủ nào cũng diều là nền dân chủ của thiểu số gcts hay các giai cấp khác nếu có trong XH, đại diện và phục vụ cho giai cấp đó mà thôi.
Dân chủ tư sản phục vụ cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản và giai cấp này nắm mọi quyền hành trong tay chi phối toàn xã hội. Đó là một nền dân chủ số ít, chuyên chính số đông. Dân chủ giả hiệu nửa vời: đó là những lời hứa suông, lợi ích là một thứ bánh vẽ. Trái lại và có sự đầy đủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, với tư cách là chế độ nhà nước đc sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp nhân dân lãnh đạo thông qua chính đảng của họ. Điều đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Bản chất giai cấp của dân chủ:
Dân chủ tư sản phục vụ cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản và giai cấp này nắm mọi quyền hành trong tay chi phối toàn xã hội. Đó là một nền dân chủ số ít, chuyên chính số đông. Dân chủ giả hiệu nửa vời: đó là những lời hứa suông, lợi ích là một thứ bánh vẽ. Trái lại và có sự đầy đủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, với tư cách là chế độ nhà nước đc sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực đều thuộc về tay nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do giai cấp nhân dân lãnh đạo thông qua chính đảng của họ. Điều đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
- Cơ sở khách quan quy định bản chất giai cấp dân chủ:
Cơ sở khách quan quy định bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, phù hợp với tính chất, trình độ phát triển cao của lực  lượng sản xuất, cho phép tạo nên sự bình đẳng về quyền lực của đại đa số nhân dân lao động.
Còn cơ sở khách quan quy định bản chất của chế độ dân chủ tư sản là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thừa nhận chế độ người bóc lột người, tạo nên sự bất bình đẳng, đối kháng sâu sắc về lợi ích trong xã hội .
- Cơ sở chính trị - xã hội của chế độ dân chủ:
Cơ sở chính trị - xã hội của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của giai cấp công nhân, khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng cộng sản.
Còn cơ sở chính trị - xh của gcấp tư sản là bản chất của giai cấp tư sản.
- Hình thức , cơ chế thực  hiện dân chủ
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Còn đối với dân chủ tư sản là đó là nhà nước pháp quyền tư sản.
- Mục tiêu dân chủ:
Mục tiêu dân chủ xã hội chủ nghĩa là hướng tới giải phóng xã hội, giải phóng con người nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phù hợp với nguyện vọng lợi ích chính đáng của nhân dân. Thực hiện một nền dân chủ thật sự trên mọi mặt đời sống xã hội.
Còn mục tiêu dân chủ tư sản là nhằm duy trì thiết lập, bảo vệ lợi ích , sự áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, sự bất công trong xã hội, sự bất bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc, kìm hãm sự tiến bộ, văn minh của nhân loại. Thực hiện một nền dân chủ giả hiệu, giả dối và cắt xén.
        *  Liên hệ với nền dân chủ ở nước ta hiện nay:
Dân chủ luôn là vấn đề lớn được đề cập trong văn kiện của các Đại hội Đảng ta. Suốt quá trình đổi mới đất nước từ 1986 đến nay, nhận thức về dân chủ của Đảng ta ngày càng hoàn thiện, đã trở thành chủ trương, chính sách và đi vào thực tiễn cuộc sống. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, dân chủ XHCN ở nước ta ngày càng được phát triển, mở rộng, trở thành động lực cho phát triển đất nước.
Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm về dân chủ của các Đại hội Đảng đã qua, thành tựu và những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh, các văn kiện của Đại hội XI đã thể hiện một hệ thống những quan điểm lý luận về dân chủ vừa có tính nguyên tắc chung, vừa có tính thực tiễn ở tầm chủ trương, chính sách cụ thể, thể hiện trên một số khía cạnh cơ bản như sau:
 Dân chủ với nghĩa dân là chủ, dân làm chủ là bản chất của chế độ XHCN mà nhân dân ta xây dựng. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ ra quan niệm mới về CNXH, trong đó dân chủ có một vị trí xứng đáng hơn: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Với quan điểm đó, Đảng ta chủ trương xây dựng nền dân chủ như một nội dung quan trọng của quá trình phát triển đất nước trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.   
Trong mối quan hệ giữa dân chủ và hệ thống chính trị, từ Đại hội VII (1991), Đảng ta đã xác định đổi mới hệ thống chính trị là hướng tới xây dựng nền dân chủ XHCN, là làm cho dân chủ của hệ thống chính trị phát triển hơn nữa.
Trong hệ thống chính trị, nhà nước là một công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là thành phần cơ bản và chủ yếu của cơ chế dân chủ gián tiếp. Các văn kiện của Đại hội XI đều đề cập tới Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với bản chất và nguyên tắc tổ chức là một nhà nước dân chủ : “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, để thể hiện dân chủ, Nhà nước phải hoàn thiện về mặt pháp lý cơ chế hoạt động của chính bộ máy nhà nước. Đó là sự phân công, phối hợp, kiểm tra và giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan, các thể chế nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát. Cương lĩnh đã dùng khái niệm “kiểm soát” giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm bảo đảm dân chủ trong cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước. Đây là một điểm mới đáng ghi nhận trong tư duy về tổ chức nhà nước của Đảng ta.
Nền dân chủ XHCN ở Việt Nam trong nhiều thập kỷ nay không tách rời với vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Bên cạnh chức năng xã hội, các tổ chức đó còn có chức năng chính trị, là các thể chế của nền dân chủ.
Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng chứng minh, sự phát triển dân chủ phụ thuộc một phần quan trọng vào thực hành dân chủ trong Đảng. Mỗi bước mở rộng dân chủ trong Đảng sẽ là nguồn động viên, khích lệ đối với việc mở rộng dân chủ trong hệ thống chính trị và trong xã hội nói chung. Thắng lợi của Đại hội XI của Đảng đã chứng minh tính đúng đắn của việc phát huy dân chủ trong Đảng.
CÂU 4:  Phân tích tính tất yếu và tầm quan trọng của liên minh Công – Nông - Trí thức trong thời kỳ quá độ lện CNXH ở nước ta hiện nay?

Liên minh giữa Giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức là hình thức hợp tác đặc biệt trong công cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chế độ Tư bản chủ nghĩa xây dựng thành công Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa cộng sản.
Tính tất yếu được thể hiện:
Liên minh CNT trong thời kỳ quá độ lên CNXH là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác, liên kết…giữa gc công nhân với gc nông dân và đội ngũ trí thức nhằm thực hiện nhửng nhiệm vụ, giải quyết các vấn đề về lợi ích không chỉ cho một lực lượng mà còn cho cả các lực lượng tham gia, đồng thời góp phần vào sự nghiệp chung xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Liên minh CNT trong thời kỳ quá độ lên CNXH mang tính tất yếu từ điều kiện và đòi hỏi khách quan của chính giai đoạn lịch sử đặc biệt này.
Công nhân, nông dân đội ngũ trí thức điều là giai tầng của những người lao động có nhu cầu, khác vọng cơ bản thống nhất cho nên công nhân, nông dân trí tức dễ đồng cảm, đ iđến đoàn kết, hợp tác vì sự nghiệp phát triển nói chung và lợi ích của mình nói riêng.
Từ thực tiễn của công cuộc xây dựng CNXH càng thấy rõ tầm quan trọng đặc biệt của liên minh CNT . V.Lê nin từng nói “ Chuyên chính vô sả là một hình thức đặc biệt của liên minh giữa gcvs, đội tiền phong của những người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân trí thức).              
  Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau.
Để xây dựng thành công xã hội mới, XH XHCN, tiến lên CNCS thì giai cấp công nhân phải coi việc xây dựng liên minh công – nông - trí thức là vấn đề có tính chiến lược; nhất là trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH và đặc biệt hơn đối với các nước tiền tư bản, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH
* Nội dung:
Liên minh công – nông – trí thức ở Việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, tạo động lực to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi.
Nguyên tắc cơ bản chung nhất của liên minh công – nông trí là “ kết hợp đúng đắn các lợi ích” trên các l ĩnh vực các nội dung của liên minh. Do đó việc liên minh CNT cần phải đảm bảo các yếu tố sau mới đảm bảo thắng lợi:
Một là: mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của GCCN, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc ta là: Độc lập dân tộc và CNXH. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó khi thực hiện liên minh lại không thể dung hòa lập trường chính trị của 3 giai tầng mà phải trên lập trường tư tưởng chính trị của GCCN. Bởi vì, chỉ có phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng của GCCN thì mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của công nhân, nông dân, trí thức và của dân tộc là lập dân tộc và CNXH.
Hai là: Khối liên minh chiến lược này phải đo Đảng của GCCN lãnh đạo thì mới có đường lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên minh, thực hiện quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng CNXH thành công. Do đó, Đảng Cộng sản từ trung ương đến cơ sở phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo khối liên minh và lãnh đạo xã hội là vấn đề có ý nghĩa như 1 nguyên tắc về chính trị của liên minh. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, liên minh công- nông- trí thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn nhất là Mặt trận Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ XHCN, đồng thời là nền tảng cho nhà nước XHCN ngày càng được củng cố lớn mạnh để bảo vệ tổ chức và xây dựng CNXH.
Ba là: nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Dưới góc độ của liên minh, cần cụ thể hóa việc đổi mới về nội dung tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong GCCN, nông dân và trí thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là triển khai thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở”, nhất là ở nông thôn.
- Nội dung kinh tế của liên minh:
Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta trong thời kỳ quá độ được cụ thể hóa ở những điểm sau đây:
+ Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước và của sự hợp tác quốc tế, từ đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với những nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và của toàn xã hội. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là “Công- nông nghiệp- dịch vụ”. Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định “Từng bước phát triển kinh tế tri thức, từ đó ma tăng cường liên minh công- nông- trí thức”
+ Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu… trong sản xuất, lưu thông phân phối giữa công nhân, nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ và các lĩnh vực khác; giữa các địa bàn, vùng, miền dân cư trong cả nước, giữa nước ta và các nước khác.
+ Từng bước hình thành QHSX XHCN trong quá trình thực hiện liên minh. Việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải được thể hiện qua việc đa dạng và đổi mới các hình thức hợp tác kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn. Trong quá trình hình thành QHSX phải trên cơ sở công hữu hóa các TLSX chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước, theo định hướng XHCN.
+ Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò của Nhà nước. Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên minh. Vai trò của Nhà nước đối với nông dân thể hiện qua chính sách khuyến nông, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế Nhà nước, Nhà nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nông dân, tạo điều kiện cho liên minh phát triển. Nông nghiệp và nông thôn không chỉ là một ngành kinh tế, một khu vực kinh tế mà còn là một lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái xã hội.
Đối với tri thức, Nhà nước cần phải đổi mới và hoàn chỉnh các luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, về bản quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về văn học nghệ thuật… Hướng các hoạt động của trí thức vào việc phục vụ công- nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống toàn xã hội.
- Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh:
Liên minh về văn hóa, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể sau đây:
+ Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
+ Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mắt của liên minh là tạo nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm nghèo cho công nhân, nông dân và trí thức.
+ Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã hội trong công nhân, nông dân, trí thức cũng là nội dung xã hội cần thiết, đồng thời còn mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống… cho toàn xã hội và thế hệ mai sau.
+ Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xóa mù chữ, trước hết là đối với nông dân, nhất là ở miền núi. Nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu, các biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch phát triển nông thôn, đô thị hóa, công nghiệp hóa nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại.Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng 1 cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định hướng XHCN và mới làm cho công- nông- trí thức cũng như các vùng, miền, dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế


Cân hỏi tháo luận lần 03


Đề thi Môn chủ Nghĩa Mac _ LeNin của lớp trước